Ông Huỳnh Phú Sổ (1920-1947), người duy nhất khai sáng, và giáo chủ nền Đạo Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) khi mới 20 tuổi. Một nhân vật lịch sử cận hiện đại, và là một người yêu nước chân thành, nhưng do phải hoạt động trong những điều kiện lịch sử vô cùng phức tạp của giai đoạn đầu kháng Pháp (1939-1947) nên đã phải chịu một số điều dị nghị và hiểu lầm. Ngoài hoạt động tôn giáo, ông còn tham gia hoạt động chính trị nhằm mưu cầu giải phóng dân tộc, và tâm sự thầm kín đó của ông cũng từng được thổ lộ, qua sự ghi nhận của tác giả quyển Kết Thúc cuộc chiến tranh 30 năm:“Tôi là một người yêu nước. Tôi không chịu được cảnh Tây chiếm đoạt đất nước mình, đè đầu đè cổ dân mình.”(Trần Văn Trà, Tập V, NXB Văn Nghệ TPHCM, 1982, tr.307). Nhân dịp 70 năm hoạt động khuyến nông tại Nam bộ của ông, một công việc cũng từng gây nên không ít ý kiến đánh giá khác nhau trong những người ngoại đạo, chúng tôi muốn trình bày lại vấn đề này một cách tỏ tường hơn để chúng ta ngày nay có được cái nhìn khách quan hơn đối với một vấn đề lịch sử liên quan nạn đói năm Ất dậu-1945 ở hai miền Trung, Bắc.
Như chúng ta đều biết, nạn đói năm Ất dậu-1945 xảy ra 70 năm về trước đã làm chết khoảng 2 triệu đồng bào miền Bắc, Trung. Nhiều nhất là đồng bào miền Bắc, có xã chết đến 2/3 dân số, nhiều nơi cả làng bỏ đi tha phương. Nạn đói bắt đầu diễn ra từ tháng 10/1944 kéo dài đến giữa năm 1945, thời gian mà thực dân Pháp đang cai trị nước ta và phát-xít Nhật đang lăm le thay chân người Pháp.
Ở miền Nam, tình hình lương thực lúc bấy giờ, lúa gạo dồi dào nhưng không thể vận chuyển cứu trợ cho Bắc, Trung vì Chiến tranh thế giới thứ 2 đang hồi quyết liệt và chuẩn bị kết thúc. Quân Đồng Minh phá hủy các trục đường sắt từ Huế trở ra, phong tỏa đường biển khiến hàng hóa không lưu thông được để cứu đói. Trong khi đó số lúa gạo dư thừa tại miền Nam lại không thể xuất khẩu đi được, làm cho giá cả trở nên rẻ mạt, thậm chí người ta còn dùng lúa thay than để chạy xe, máy phát điện… Ngược lại, giá hàng hóa ngoại quốc trở nên đắt đỏ, lại thêm có kẻ xấu phao tin đồn “tận thế”, làm cho nhà nông nản lòng, bỏ hoang đồng ruộng. Bài “Đính chánh”[1] ngắn gọn bằng văn vần của ông Huỳnh viết lối tháng tư năm Ất dậu (1945, trước khi đi khuyến nông) sau đây cho ta hình dung khá rõ thực trạng kinh tế-xã hội rối rắm lúc bấy giờ:
“Gần đây có kẻ ngoa truyền
Một bài sấm ngữ nơi miền Hậu Giang
Nói rằng: tháng tám tai nàn
Tối tăm trời đất, tang hoang cửa nhà
Kẻ gần rồi đến người xa
Từ trong thôn dã đến ra thị thành
Hại cho quốc kế dân sanh
Ruộng đồng tươi đẹp dân đành ngó lơ
Thương thay những kẻ ngu khờ
Lầm mưu gian trá ngẩn ngơ ưu sầu
Hỏi rằng: sấm bởi nơi đâu ?
Nói: “ông Hòa Hảo làm đầu truyền ra”
Buộc lòng tôi phải đính ngoa
Cho trong toàn quốc gần xa được tường
Chuyện ấy là chuyện hoang đường
Của bọn phá hoại chủ trương hại mình
Anh em ta hãy đồng tình
Nếu gặp “nắm óc” đem trình “công an”
Chúng ta giải quyết lẹ làng
Đừng để chuyện huyễn tràn lan ra nhiều.“
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chánh Pháp. Người Nhật cũng nhận thấy viễn cảnh đói sẽ xảy ra ở miền Nam giống như ở Bắc, Trung. Để ổn định tình hình xã hội sau cuộc đảo chánh, Nhật đã yêu cầu ông Huỳnh đi về “vựa lúa” miền Tây để khuyến nông, vì biết ông có uy tín rất lớn với đồng bào ở đây. (Trước đó, năm 1942, ông Huỳnh được người Nhật giải cứu khỏi nơi câu lưu ở Bạc Liêu, lúc ông sắp bị người Pháp đày sang Lào). Trong thời gian tự do tạm trong sự bảo hộ của người Nhật, ông Huỳnh có nói lên lập trường của mình đối với người Nhật bằng hình thức câu đối mà ông đọc cho một số tín đồ thân tín nghe và sau đó đã được lưu truyền âm thầm trong các tín đồ PGHH:
“Trương Tiên tá Hớn phi thần Hớn, Quan Thánh cư Tào bất đế Tào.”[2]
Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp, trong tín đồ PGHH và đồng bào miền Nam thường rỉ tai nhau lời tiên báo của ông Huỳnh: “Người Nhựt không ăn hết nửa con gà.”[3]
Trở lại cuộc khuyến nông của ông Huỳnh, người chuyên biên khảo văn sử miền Nam là ông Nguyễn Văn Hầu đã viết tóm tắt trong quyển Thất Sơn mầu nhiệm: “Trong vòng hai tháng, từ 10-6-1945 đến thượng tuần tháng 8 dl 1945, Đức Thầy diễn thuyết 107 chỗ. Số thính giả có nơi đến 10 ngàn người.”[4]
Dưới đây, những câu thơ trích đoạn bài thơ “Khuyến Nông” [5], có nội dung khuyến nông, cổ vũ việc cứu đói ông Huỳnh đã sáng tác lối tháng tư năm Ất dậu (1945) và luôn tuyên đọc trước khán, thính giả miền Tây trong các chuyến đi vận động:
“Hỡi đồng bào ! Hỡi đồng bào!
Thần chết đã tràn vào Trung Bắc,
Ngày lại ngày siết chặt giống nòi.
Lật qua các báo mà coi,
Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.
(…) Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên.
Nam Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung.
(…) Điền chủ phải một lần chịu tốn,
Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên.
Muốn cho dân được lòng bền,
Mua giùm canh cụ là nền khuếch trương.
Giá mướn phải thường thường dễ thở,
Xử ôn hòa niềm nở yêu nhau.
Cùng chung một giọt máu đào,
Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà.
Kẻ phu tá cũng là trọng trách
Cứu giống nòi quét sạch non sông
(…) Chừng ấy mới hát ca vui vẻ,
Ai còn khinh là kẻ dân ngu.
Không đem được chút công phu,
Không đem sức lực đền bù nước non
(…) Nắm tay trở lại cánh đồng Cần lao,
nhẫn nại Lạc Long tổ truyền… ”
Dù qua đã 70 năm, nhưng khi đọc lại nhiều người còn xúc động qua lời văn trong sáng giản dị nhưng nồng nàn tình thiêng dân tộc, nhất là đề cao vai trò của người nông dân để gợi lên lòng yêu nước có sẵn trong họ, kêu gọi cả điền chủ lẫn nông phu nắm tay nhau trở lại cánh đồng Lạc Long tổ truyền…
Quả đúng như người Nhật dự tính, đồng bào và tín đồ PGHH miền Tây rất ủng hộ, kính mến ông Huỳnh: “Không bút mực nào tả nỗi sự hân hoan vô hạn của anh em tín đồ khi gặp Đức Thầy sau hơn 2 năm xa cách. Nhiều khải hoàn môn làm ở giữa đường và nhiều bàn hương án được đặt hai bên lộ để tỏ lòng tín đồ kính mến Thầy, còn hơn cuộc tiếp rước quan Toàn quyền đi kinh lý. Hai bên đường, anh em tín đồ nam phụ lão ấu đứng chờ cả buổi cả ngày để mong gặp mặt Đức Thầy đáng yêu đáng kính.” [6]
Dưới đây là lời nhận xét của thi sĩ Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp, người đã trực tiếp chứng kiến lúc ông Huỳnh đi khuyến nông: “Con người đó thật kỳ dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai ba nơi, mỗi nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai ba giờ ở giữa trời, trước một đám đông nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, thầy Tư vẫn nói mà dân chúng vẫn đứng nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi nơi khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ mà ăn rất ít, toàn đồ chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế! Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh thế.”[7]
Các nhà nghiên cứu PGHH cũng đã ghi nhận mục đích và lợi ích của cuộc khuyến nông: “Thừa cơ hội độc nhứt vô nhị nầy, Đức Thầy đi khắp miền Tây khuyến nông thuyết pháp, thâu nạp tín đồ” [8].
Tuy nhiên, cuộc khuyến nông kể trên của ông Huỳnh cũng từng bị hiểu lầm qua một vài ý kiến nhận định nghiêng lệch, thiếu khách quan, do chưa thấu tỏ mọi mặt của hiện tình phức tạp lúc bấy giờ, khi cho rằng nó chỉ nhằm mục đích phục vụ cho mưu đồ của Nhật: “Không những chỉ các lời tiên tri của Huỳnh Phú Sổ được sử dụng như một vũ khí tuyên truyền hữu hiệu cho quân đội Nhật, mà bản thân vị giáo chủ này còn được quân Nhật đưa đến một số nơi ở đồng bằng sông Cửu Long để kêu gọi, khuyến khích nông dân tích cực sản xuất lúa gạo phục vụ cho mục đích chiến tranh của Nhật” [9].
Chúng tôi, những hậu sinh cầu học lịch sử văn hóa giống nòi, mạo muội xin góp ý làm sáng tỏ vấn đề trên như sau. – Một, nhận định rằng “… lời tiên tri của Huỳnh Phú Sổ được sử dụng như một vũ khí tuyên truyền hữu hiệu cho quân đội Nhật,..”. Nếu đọc qua quyển Sấm giảng thi văn, ai cũng phải khách quan thừa nhận những điều Ông Huỳnh nói, viết không có lợi gì cho người Nhật, mà ông chỉ luôn hô hào kêu gọi đồng bào ruột thịt thương yêu nhau, và yêu quê hương xứ sở, ca ngợi tương lai Việt Nam vinh quang …. Một trong những bằng chứng cụ thể là lời tiên tri, như đã dẫn ở trên: “Người Nhựt không ăn hết nửa con gà.”. Và đây là bài mà chúng tôi đọc, thấy trong quyển Sấm giảng thi văn của ông, viết lối tháng tư năm Ất dậu (1945), trước khi đi khuyến nông. Ông Huỳnh đã mạnh dạng gióng lên “HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH NHỮNG KẺ TRÔNG TÂY, HẪNG-HỜ VỚI NẠN ĐÓI BẮC-KỲ ”[10] lúc bấy giờ, để lên án những kẻ buôn dân bán nước, không biết thương xót đồng bào bị chết đó, có đoạn như sau:
“Nam-kỳ có một lũ hề,
Mày râu nhẵn-nhụi chuyên nghề buôn dân.
Nhờ ơn Mẫu-quốc vinh thân,
Giờ toan mua tảo bán tần nữa sao?
Dửng-dưng trước nghĩa đồng-bào,
Đói cơm khát nước trông vào thống tâm.
Làm ngơ, giả điếc, giả câm,
Tay ôm hũ bạc, mắt đăm đăm chờ.
Vái rằng: “Mẫu-quốc gặp cơ”,
Trở qua Nam-Việt con thờ muôn năm. …….”
– Hai, nhận định rằng “… bản thân vị giáo chủ này còn được quân Nhật đưa đến một số nơi ở đồng bằng song Cửu Long để kêu gọi, khuyến khích nông dân tích cực sản xuất lúa gạo phục vụ cho mục đích chiến tranh của Nhật”.
Như trên đã nói, nạn đói lúc bấy giờ đang diễn ra ở Bắc, Trung nhưng nhiều khả năng cũng sẽ xảy ra tại miền Nam. Ông Huỳnh đã bỏ ra nhiều nỗ lực khuyến nông để giúp cho đồng bào Nam bộ thoát khỏi viễn cảnh bi đát này. Tuy mục đích của người Nhật nhờ ông Huỳnh là nhằm ổn định lương thực cho Nam bộ, để họ rảnh tay làm việc khác ở Đông Á, nhưng ông Huỳnh cũng biết tương kế tựu kế thực hiện mục đích tốt riêng của mình, như đã thố lộ trong bài thơ khuyến nông “Muốn cứu khỏi tai nàn của nước, No dạ dày là chước đầu tiên.” Theo quan niệm của ông Huỳnh, muốn đuổi ngoại xâm phải có con người mà con người phải no bụng. Còn xét về tình người với người, thấy đói sắp xảy ra, ai cũng xả thân tìm cách ngăn chặn hay cảnh báo cho đồng loại, huống chi ở đây là đồng bào mình.
Năm 1943, hai năm trước khi đi khuyến nông, và một năm sau khi được người Nhật cứu ông khỏi tay người Pháp, ông Huỳnh còn có làm bài thơ “Gọi đoàn thanh niên” [11], qua đó đưa ra nhận định khá rõ về người Nhật và người Pháp đối với Việt Nam:
(…) Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại, Của cọp rồng trên dãy đất ta. Một khi cọp đã lìa nhà, Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng? Vậy anh em phải chung lưng lại, Dùng sức mình đánh bại kẻ thù. …
Dò theo một ít sử liệu còn lưu lại: Đầu tháng 7-1945, Bà Nguyễn Thị Thập sắp đi dự hội nghị Tân Trào, trong hồi ký của bà có ghi: “Sở dĩ có đại diện Hòa Hảo cùng đi trong Đoàn vì trước đây, các đồng chí trong nhóm “Giải Phóng” hay gọi là “Việt Minh cũ” đã vận động, thuyết phục được Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Hòa Hảo đồng ý đem cả quần chúng, tổ chức của mình gia nhập vào Mặt trận Việt Minh để cùng đi cứu nước.”. [12]
Phải chăng trước khi đi khuyến nông, ông Huỳnh đã bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh (cũ) rồi?
Cho nên, nhìn qua cuộc khuyến nông nầy, ta không thể chủ quan, định kiến đưa ra kết luận kiểu “format”: rằng ông Huỳnh theo Nhật hay chỉ biết làm công cụ cho người Nhật!
Ngẫm kỹ lại, đang lúc bị kẹp giữa hai thế lực ngoại bang hung hăng của “cọp (Pháp) rồng (Nhật) trên dãy đất ta…” mà có cơ hội lợi dụng sức gió của “rồng” để giương buồm cùng đưa con thuyền dân tộc Việt sớm vượt qua cơn bão chết đói thì lịch sử có nên trân trọng khuyên một dấu son? Hơn nữa nhìn lại công cuộc khuyến nông của ông Huỳnh, nếu không ích nước lợi dân thì cũng không gây ra bất kỳ hệ quả xấu gì đối với đất nước và dân tộc; trái lại tệ nhất thì cuộc khuyến nông với lời kêu gọi còn có hàm ý đoàn kết bảo tồn giống nòi “Nắm tay trở lại cánh đồng / Cần lao nhẫn nại Lạc Long tổ truyền…”, hay ít nhất cũng đã góp phần cho chính đồng bào, nông dân tại địa phương miền Nam không chịu cảnh chết đói như ở hai miền Bắc, Trung!
Để đánh giá một sự kiện, hay nhân vật chính xác hơn, chúng ta cần xét đến bối cảnh lịch sử cụ thể, cũng như quá trình của sự kiện liên quan đến nhân vật. Có nhận định chính xác công bằng rồi chúng ta mới đóng góp cho sự đoàn kết dân tộc, để cùng chung tay hướng tới tương lai. (*)
HỒNG AN, Tạp chí Xưa và Nay số 464, tháng 10 năm 2015, tr. 43-45.